Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Mùa Vu Lan nhớ nhà văn VÕ HỒNG

Năm nào cũng vậy mỗi khi sắp đến ngày lễ Vu Lan là tôi đọc lại Võ Hồng: Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, Tiếng chuông triêu mộ, Áo em cài hoa trắng, Mái chùa xưa, Màu áo nâu sòng, Đi con đường khác, Hữu thân hữu khổ….


Đọc ông để ôn lại cách viết của ông, cách viết hết sức tình cảm ân nghĩa của ông, qua cách viết tràn ngập tình người, tình quê hương đất nước mà ông đã lay động không biết bao nhiêu trái tim hướng thiện, hướng về các đấng sinh thành. Có một năm nọ, nhân ngày lễ Vu Lan tôi có tặng cho một vị đi làm cách mạng nhưng đã về hưu một cuốn tùy bút “ Tiếng chuông triêu mộ” của nhà văn Võ Hồng. Đọc xong ông cảm ơn tôi và phát biểu: “ Tôi không ngờ đạo Phật dễ thương  dễ cảm như vậy, nhiều chục năm nay tôi không để tâm đến vì nghĩ rằng đạo Phật  mê tín dị đoan. Đọc Võ Hồng tôi thích cách viết của ông với những câu: Bà con nông thôn gần gũi với chùa, thương kính ông Phật, không phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam quy, ngũ giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không hiểu, mà chỉ biết nhìn theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương các Thầy mà bớt phạm sát sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay để nói, rất êm để nghe, mà phàm nói hay thì thường ít làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người đàn bà kia, tin rằng lễ Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi xin ở bậc thềm trước chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương Cực lạc”.
hoặc đoạn này: “ Mỗi lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm bốn câu kệ, lòng tôi xúc động rộn ràng. Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe tụng tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ÐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu lên: Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”.
và đoạn này nữa: “Tôi không là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối nhìn xuống thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ có nghĩa là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh. Chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả”.
Văn của ông như vậy đấy! Tâm của ông  rất thiện lành, tình của ông chan hòa tất cả, một áng  mây trời bay mông lung vô định, một tiếng chim chiều kêu vô vọng nơi thôn ấp xa, một giòng nước chảy dưới cầu Ngân Sơn , Tuy An , Phú Yên quê ông cũng làm lòng ông xao xuyến, và ông đã biết cách chuyển tải nỗi niềm xao xuyến, rung cảm của ông qua chúng ta, qua độc giả của ông, đời viết văn của ông, ông đã thành công là vậy.
Ông viết về Đạo Phật hay là vì ông được cái duyên sống gần Phật, ông có dạy ở Viện cao đẳng Phật học Hải Đức, có dạy ở trường Bồ Đề Nha Trang, tính ông hiền lành dễ gần gũi nên được các Thầy các Sư cô quý mến, Hòa thượng Trí Thủ và các vị cao tăng Phật giáo sống ở Nha Trang cũng rất thương quý ông. Tiếng niệm Phật, tiếng Đại hồng chung, tiếng chuông  tiếng mõ, màu áo nâu sòng, sinh hoạt lễ hội của Phật giáo Nha Trang đã thầm lặng đi vào trong tâm ông mỗi khi mỗi ít, thấm đẫm lòng từ bi của nhà Phật mỗi ngày một chút, nên ông đã trở thành Phật tử lúc nào không hay, và viết về đạo Phật thâm trầm cảm động, tự nhiên như nhiên , như ta đã thấy qua các tác phẩm của ông. Về già là thế, còn những ngày còn trẻ tình yêu của ông lại càng dào dạt mông mênh hơn. Lần đầu tiên đọc tác phẩm của ông là truyện dài Hoa Bươm Bướm cách đây gần 40 năm, tôi thích nhân vật Luân của ông ( cũng chính là ông) và tình yêu lãng mạn nhẹ nhàng của Luân với Quỳ (vợ ông sau này): “Trên chuyến tàu đêm từ Suối Cát về Tháp Chàm, Luân cầm tay Quỳ và nói như trong một giấc mơ. Rồi chàng rụt rè bỏ tay Quỳ ra, nhưng những ngón tay Quỳ xoay lên giữ bàn tay chàng lại, cầm bàn tay đó áp lên má mình đang đầy nước mắt”. Truyện “Con suối mùa xuân”  là chuyện tình yêu đôi lứa mà ông viết rất thành công. Trong truyện có ba nhân vật chính: Mỹ Khuê, Tịnh và Annie. Truyện này tôi đọc rất lâu trong một tạp chí văn học trước năm 1975, đã lâu lắm rồi mà tôi vẫn còn nhớ được một đoạn rất  có duyên như thế này: “Annie! Nàng đột nhiên hiện đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ đi, để tôi trầm ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng nước sâu nằm lặng yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa và những dải rong rối ren chằng chịt”.
Tôi luôn ngưỡng mộ người có tài có đức, có dịp là tìm thăm để biết mặt, để nghe tiếng nói, bởi trăm nghe không bằng một thấy. Chính vì vậy mà tôi biết rất nhiều các vị cao tăng Phật giáo, tìm gặp các nhà văn mà mình yêu thích, ít nhiều chịu ảnh hưởng của họ. Năm 2003 tôi có việc vào Nha Trang, tìm đến thăm Nhà Văn Võ Hồng ở số nhà 51 đường Hồng Bàng, đã tìm hiểu từ trước rồi, tôi khẽ khàng kéo dây chuông, một lát sau có một ông lão trán cao tóc bạc với đôi gò má cao ra mở cổng. Lần đầu tiên gặp nhà văn Võ Hồng, nhưng tôi đã nhìn thấy ông qua hình ảnh in trên sách báo tạp chí rồi, tấm ảnh của ông mà tôi thích nhất là tấm ảnh mà nhà văn Tạ Tỵ vẽ ông trong tác phẩm “10 khuôn mặt văn nghệ hôm nay”, chỉ vẽ nét thôi mà rất giống ông: Đầu to, trán cao, hai gò má cao, khuôn mặt xương xẩu.
Nhà văn Võ Hồng dắt tôi vào nhà, nhà vắng lặng lạnh lẽo vì thiếu bóng dáng đàn bà, con cháu. Ông sống một mình, cơm có người nấu đem tới cho ông. Sau khi chào hỏi xã giao, ông tự đi pha nước mời tôi, nhà cửa bộn bề sách vở ngổn ngang, ông tiếp chuyện tôi thân tình vì biết tôi là một độc giả yêu thích tác phẩm ông, đọc ông rất nhiều, và có hiểu ông nữa. Tôi liệt kê các tác phẩm của ông viết mà tôi đã đọc qua: “Từ tác phẩm đầu tiên Hoài cố nhân 1959, Hoa bươm bướm 1966, cho đến tác phẩm in sau 1975 Trong vùng rêu im lặng… Cho ông nghe, tôi có nhắc đến truyện Con suối mùa xuân, Tiếng chuông triêu mộ, Đi con đường khác… Ông nói Thầy đọc tôi hiểu tôi, làm tôi cảm động quá! Ở Nha Trang đây có thầy Thích Phước An cũng thích văn tôi, có lần Thầy Phước An nói với tôi là cách viết của Thầy có ảnh hưởng từ cách viết của tôi, tôi cảm ơn quý Thầy.
Cùng đi với tôi đến thăm ông có Phật tử Long người Nha Trang, tôi nói Long đi nhờ một người thợ chụp ảnh đến để chụp một vài tấm ảnh để kỷ niệm với ông. Ông nói để tôi thay cái quần,  mặc cái áo cho đàng hoàng để chụp ảnh với Thầy, ăn mặc không nghiêm chỉnh chụp ảnh với Thầy kỳ lắm!  Lên căn gát phía trên tôi lấy chiếc ghế nhựa  mời ông ngồi xuống, tôi đứng phía sau, rồi bảo người thợ bấm máy. Ông nói: “Tôi ngồi mà Thầy đứng thất lễ chết”. Tôi trả lời: “ Không sau đâu Thầy (rất nhiều người gọi nhà văn Võ Hồng là thầy) con chỉ là một người học trò nhỏ của Thầy thôi mà, với lại tuổi đời Thầy đáng tuổi ba con”. Hai tấm kế tiếp tôi với ông cùng ngồi cùng đứng với nhau.
Văn nghiệp của ông để lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam rất đáng kể, nhìn những tác phẩm liệt kê sau đây chúng ta sẽ nhận ra điều đó:
Truyện đầu tay của ông đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn. Các tác phẩm đã xuất bản của Võ Hồng gồm có các tiểu thuyết: Hoài Cố Nhân (Ban Mai, 1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Đầu Non (Văn, 1968), Gió Cuốn (Lá Bối, 1968), Những Giọt Đắng (Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc (Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay (tiếp Hoa Bươm Bướm, Lá Bối, 1971). Các tập truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh (Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng Mát (An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân (Lá Bối, 1966), Bên Kia Đường(Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng (Lá Bối, 1971), Áo Em Cài Hoa Trắng (Lá Bối, 1969), Trận Đòn Hòa Giải (Lá Bối, 1970), Xuất Hành Năm Mới (Lá Bối, 1971) ……
Trong tác phẩm của ông chúng ta thấy được tình yêu đất nước, quê hương của ông, ông luôn nặng lòng với quê hương của ông, làng Ngân Sơn, An Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, rất nhiều trang viết của ông là hình ảnh quê nhà, chùa nhà, cây khế cây chanh nhà, tiếng chim nhà….Tình yêu chung, tình yêu riêng của ông cũng lai láng mật ngọt, nhưng rồi ông luôn than thở mình cô đơn: “Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”. Trong những bức thư viết riêng cho nhà văn Mang Viên Long ông cũng luôn than thở: “… Thư nhận vào dịp Tết nhộn nhịp nên không kịp hồi âm. Mong anh thứ lỗi khiếm nhã. Tôi vốn không đến nỗi lười nhưng mà những ngày tháng gần đây cũng thêm heo hút cô đơn nên tôi lì tôi bỏ phế hết. Cả đến chuyện viết lách và làm ăn.” (thư 27-2-72).
Vợ ông mất khi ông còn rất trẻ 35 tuổi, ở vậy nuôi ba con cho ăn học thành tài, và định cư ở nước ngoài, còn ông, ông vẫn ở lại một thân một mình, âm thầm lặng lẽ, ẩn cư. Ông thường than thở mình cô đơn là vậy.
Năm tôi ghé thăm ông 2003, trí nhớ ông còn minh mẫn nhớ đến tác phẩm mình, nhớ đến nhân vật trong tác phẩm mình, nhưng rồi sau đó mỗi ngày mỗi bệnh tật, trí nhớ kém dần ông bắt đầu lãng quên, quên tác phẩm mình viết, quên nhân vật mình viết, quên những kỷ niệm đẹp của một thời hoa mộng, quên tiếng chuông thu không của chùa Hải Đức, quên màu áo nâu sòng của các Thầy, các Sư cô vốn là học trò  mình, quên cả người thân của mình nữa, những năm tháng cuối đời người con gái mà ông  thương yêu nhất đã từ Pháp về ở bên cạnh ông , chăm sóc cho ông, đó là chị Võ thị Diệu Hằng,  ngưỡng mộ tài năng chị có lần tôi đã điện thoại hỏi thăm.
Sinh lão bệnh tử trong kiếp người ai cũng phải trải qua, đi qua. Nhưng với chúng ta: tôi, anh,chị, em….  kẻ không có danh tiếng gì, không có đóng góp gì cho cuộc đời, nhân thế. Đến đi trong trần gian này cũng chỉ như viên sỏi nhỏ ném vào lòng đại dương, xao dợn  lăn tăn rồi chìm vào hư vô quên lãng, không có gì đáng nói để nói. Còn với các vị có đóng góp lớn cho đời cho đạo về già mà mất trí nhớ, lú lẫn, lòng chúng ta cảm thương vô hạn.
Chỉ cần đọc lại văn nghiệp của ông, hoặc nếu không thể  chỉ cần đọc lại những đoạn trích dẫn ngắn ở trên, hoặc rải rác đây đó,  chúng ta cũng thấy được tấm lòng ông đối với nhân thế, văn phong của ông chân chất mà tài hoa rất mực.
Rồi vô thường đến ông lặng lẽ, lãng quên tất cả, quẳng đi tất cả để ra đi. Tấm lòng vì nhân thế của ông, văn chương chữ nghĩa đầy tính nhân văn để lại cho đời, tâm ông lành và thiện chắc chắn ông sẽ tái sinh vào cảnh giới tốt đẹp.
Cũng như mọi năm, mùa Vu Lan năm nay chùa Bửu Minh của chúng tôi sẽ có lễ bông hông  cài áo, sẽ đọc đoản văn Bông hồng cài áo của thiền sư NH, và tùy bút Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, của ông, để nhắc nhở Phật tử mình rằng cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu.
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, ngồi viết lại những dòng chữ đầy kỷ niệm với ông, để nhớ ông, để học hỏi cách viết của ông, và cũng nhắc mình rằng nhớ cầu siêu cho ông trong ngày Đại lễ Vu Lan báo hiếu, một nhà văn cư sĩ Phật tử chân chính của nhà Phật. Ông mất ngày 31.3.2013 (20 tháng 2, Quý Tỵ) hưởng thọ 92 tuổi.

Mùa Vu Lan PL.2557 (2013)
Chùa Bửu Minh, Ngày 29 tháng 6 năm Quý Tỵ
Thích Giác Tâm

Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

Bồng Lai Tiên Cảnh

Bồng Lai Tiên Cảnh
Đặt chân tới đây, bạn như lạc vào thế giới bồng lai tiên cảnh... Trương Gia Giới là tên một thành phố ở phía Tây Bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Đây cũng là thiên đường du lịch với vô số cảnh đẹp thần tiên: từ núi non, sông nước hữu tình đến những thung lũng nên thơ, khu rừng nguyên sinh hoang dã. Đặc biệt, với rừng đá sa thạch hùng vĩ, Trương Gia Giới còn được mệnh danh là “Pandora trên Trái đất”. 
Pandora là tên một hành tinh tươi tốt mang sự sống nằm trong chòm sao Alpha Centauri trong bộ phim "Avatar", được biết đến với khung cảnh hùng vĩ, hài hòa giữa mây, trời, núi và cây cỏ. Khu vực mà chúng ta chuẩn bị "du ngoạn qua màn hình máy tính" dưới đây là một minh chứng về việc "Pandora có thật trên Trái đất".
Cách trung tâm thành phố khoảng 20 phút chạy xe, công viên quốc gia Trương Gia Giới được coi như “vườn sau” của thành phố và còn được gọi với cái tên mỹ miều “công viên đào nguyên”. 
Rừng nguyên sinh Trương Gia Giới rộng khoảng 4.810ha, ở độ cao trên 1.000m so với mực nước biển. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới năm 1992, Công viên Địa chất Thế giới vào năm 2004. 
Cả khu vực nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, quanh năm có sương mù bao phủ như chốn bồng lai. 
Những chóp núi ẩn mình trong sương sớm, để rồi vút cao đầy kiêu hãnh khi Mặt trời lên. 
Sự đa dạng của cảnh quan mang đến cho mỗi mùa một vẻ đẹp rất riêng. 
Rừng đá sa thạch là cảnh đẹp nổi tiếng nhất ở Trương Gia Giới với quần thể núi đá cao vút, đứng sừng sững như những cây cột trụ trời, tạo nên khung cảnh nguyên sơ vô cùng ấn tượng. 
Khu rừng đặc biệt này có tới hơn 3.000 cột đá và vách núi hình thù thiên biến vạn hóa, có cột cao tới 800m. Giữa các cột đá và khe núi là các hang động, suối nguồn, những rừng cây nguyên sinh nơi cư trú của nhiều loài cây ôn đới. 
Khung cảnh ngoạn mục này là kết quả của quá trình kiến tạo địa chất kéo dài suốt 380 triệu năm, từ khi cả khu vực còn chìm sâu dưới đáy biển, qua nhiều lần nâng lên hạ xuống của vỏ Trái đất và quá trình bào mòn, phong hóa. 
Đứng trên đỉnh núi phóng tầm mắt xuống thung lũng, khung cảnh bao trùm ngút mắt một màu xanh.
Hai vách núi chụm đầu vào nhau hình thành cây cầu tự nhiên, hay còn được người dân nơi đây gọi là “Thiên hạ đệ nhất kiều”. 
Đây chính là ngọn núi Hallelujah nổi tiếng - nguyên mẫu để các nhà làm phim tạo ra những ngọn núi bồng bềnh giữa biển mây trong siêu phẩm điện ảnh Avatar (2009). Vì thế, Trương Gia Giới còn được mệnh danh là “Pandora trên Trái đất”. 
Trong số những ngọn núi tuyệt đẹp của Trương Gia Giới, Thiên Môn là đặc biệt nhất. Để lên đến được đỉnh, chúng ta phải đi hết con đường dài 11km uốn lượn quanh núi. 
Con đường này có 99 khúc quanh, tượng trưng cho 9 cung trên Thiên đình. 
Leo qua 999 bậc thang dốc đứng của đỉnh Thiên Môn, du khách sẽ tới được Cổng Trời, vốn là một lỗ khổng lồ được Mẹ Thiên nhiên "tạc" trong lòng núi. 
Cổng Trời có hình bán nguyệt và cao tới 130m. Với địa thế ngoạn mục, đây thường là nơi tổ chức các màn biểu diễn nhào lộn máy bay. 
Một ngôi chùa lớn được xây dựng trên đỉnh núi. 
Để phục vụ nhu cầu ngắm cảnh của du khách, người ta đã dựng một con đường nhỏ men theo vách đá cao ngất của đỉnh Thiên Môn. Con đường có tên Skywalk, dài khoảng 80m, trong đó có 1 đoạn lát kính. 
Khi đi bộ trên Skywalk, bạn sẽ phải thót tim và rón rén như bước trên mây. Bởi lẽ, mọi cảnh vật hiện rõ mồn một ngay dưới chân và dưới lớp kính là độ cao đáng sợ - hơn 1.400m. 
Trương Gia Giới nằm trọn trong đất liền, song với hơn 800 mạch nước từ ao, hồ, sông, suối, thác nước..., nơi đây không bao giờ bị thiếu nước ngay cả trong mùa khô hạn. 
Thác nước Yuanyang đổ xuống từ độ cao 100m, tiếng rì rào của nó vang vọng khắp vùng núi. 
Thả thuyền trên hồ Bảo Phong, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức phong cảnh đẹp như tranh vẽ của những rặng núi xanh ngắt hai bên bờ và thác nước trắng muốt đổ xuống từ sườn núi. 
Rời xa những đô thị náo nhiệt và bụi bặm của thành phố du lịch với 1,68 triệu dân, được hít đầy lồng ngực bầu không khí trong lành tinh khiết và tận hưởng cái không gian yên tĩnh chỉ có tiếng vượn hót chim kêu, bạn chắc chắn sẽ phải nấn ná, không muốn rời khỏi chốn này. 
Cư dân bản địa Trương Gia Giới chủ yếu là người dân tộc thiểu số như người Thổ Gia, người Bạch, người Miêu... còn người Hán chỉ chiếm chưa đầy 1/4. 
Các dân tộc thiểu số đã hình thành những phong tục tập quán độc đáo, bao gồm nghệ thuật ca hát, nhảy múa, các lễ hội dân gian... 
20 năm trước, để đến được khu rừng đá sa thạch của Trương Gia Giới, du khách sẽ phải vượt qua những con đường đất lầy lội, nhưng giờ đây họ đã có thể dễ dàng lên đến đỉnh Thiên Môn mà gót chân không dính bùn. Thành phố Trương Gia Giới ngày nay đã phát triển thành một trong những cụm du lịch hàng đầu Trung Quốc với nhiều điểm du lịch hấp dẫn, cùng chuỗi công viên, nhà hàng, khách sạn... 
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của Trương Gia Giới lại không đi kèm với những hệ lụy xấu đối với thiên nhiên. Bởi song song với phát triển du lịch, chính quyền địa phương luôn tuân thủ một nguyên tắc sống còn: “Bảo tồn thứ nhất, phát triển thứ hai”. Nhờ vậy, trong suốt 40 năm qua, khu vực này chưa từng xuất hiện một vụ cháy rừng lớn hay dịch bệnh đáng kể nào đối với cây cối và động vật. 
10 triệu lượt du khách đã đến tham quan công viên quốc gia Trương Gia Giới trong suốt 1 thập kỉ qua và vẻ đẹp tự nhiên của nó như vẫn còn nguyên vẹn. Sẽ thật đáng tiếc nếu bạn đến với Hồ Nam mà không ghé thăm địa danh độc đáo này.

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2011

Đóng diễn lại phim tư liệu Bồ tát Quảng Đức tự thiêu?



Minh Thạnh
Bài viết này chỉ nhằm mục tiêu chỉ ra một số khác biệt trên hình ảnh (tĩnh/video) ghi lại khoảnh khắc Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu, để hướng đến vấn đề, rằng sự khác biệt đó cho thấy một số tư liệu hình ảnh (tĩnh/video) có thể là đã được dựng đóng lại về sau, không phải là hình ảnh thực ghi tại hiện trường.
Chúng tôi kính lời cảm ơn một bạn đọc đã gởi cho chúng tôi những hình ảnh với những so sánh khác biệt ban đầu. Từ đó, chúng tôi tiếp tục so sánh và phát hiện thêm một số những khác biệt nữa.
Chúng tôi chỉ xin dừng lại ở kết luận là có thể đã có việc đóng diễn lại hình ảnh/video, còn:
-         Ai làm việc đó?
-         Tại sao họ làm?
-         Để làm gì?
-         Những tư liệu dàn dựng lại đã được dùng như thế nào?
-         Hậu quả ra sao?
thì xin để bạn đọc chúng ta cùng tìm hiểu, sưu tầm những tư liệu, thông tin bổ sung.
Chúng tôi tạm thời chia những hình ảnh dưới đây làm 3 loại:
-         Loại đánh số thường là những hình ảnh, hoặc ảnh chụp, hoặc ảnh trích từ phim đã được nhiều người biết đến từ sau khi xảy ra sự việc Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu.
-         Loại đánh số La Mã chỉ có 1 bức, là ảnh chụp tư liệu di vật chiếc xe chở Hòa thượng Quảng Đức đến và đậu ở nơi tự thiêu được bảo tồn như một cổ vật lịch sử, chụp về sau.
-         Loại đánh số theo chữ cái La Tinh in hoa là những hình ảnh trích từ video clip mới xuất hiện và được biết đến thời gian gần đây trên mạng, nhất là ở trang You Tube.
Xin bạn đọc xem kỹ những bức ảnh dưới đây, tập trung chú ý vào các mũi tên để so sánh những điểm khác biệt giữa các ảnh 1, 2, 3, 4, 5, I với các chi tiết trong ảnh A, B, C, D, Đ.
Ảnh 1
Ảnh 2
Ảnh 3
Ảnh 4
Ảnh 5
Ảnh I
Ảnh A
Ảnh B
Ảnh C
Ảnh D
Ảnh Đ
Chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt
-         Nhóm các ảnh A, B, C, D, Đ có hậu cảnh (bối cảnh) khác biệt rõ ràng với nhóm ảnh 1, 2, 3, 4. Xin chú ý các chi tiết cột đèn có bảng tên đường, tấm biểu ngữ, trụ đèn xanh đèn đỏ, hình dáng tòa nhà. Đặc biệt là việc có xuất hiện một tấm biểu ngữ, dường như không phải tiếng Việt vì ở dòng chữ lớn nhất không có khoảng trắng nào ở giữa.
-         Cũng cùng trong sự so sánh, chú ý sự khác biệt vị trí ngồi của Hòa thượng Quảng Đức, hướng nhìn của ngài so với chiếc xe. Đặc biệt so sánh sự khác biệt vị trí của thùng xăng so với bánh trước chiếc xe hơi. Chú ý, một bên, thùng xăng  bị biến dạng vì nóng khi Hòa thượng Quảng Đức vẫn còn ngồi yên trong lửa đỏ, và một bên thùng xăng còn nguyên và ở vị trí hoàn toàn khác khi nhục thân Hòa thượng đã ngã ra đất.
-         Trong nhóm ảnh 1, 2, 3, 4, 5, đặc biệt ảnh 5, cho thấy không có sự hiện diện của cảnh sát. Trong khi, ở nhóm ảnh A, B, C, D, Đ sự hiện diện của cảnh sát là rõ ràng.
-         Có thể so sánh màu sơn chiếc xe là di vật lịch sử (ảnh I) với màu sơn chiếc xe trong video clip liên hệ.
Một loạt các chi tiết khác biệt cho phép chúng ta đặt vấn đề, có thể video clip tư liệu được công bố gần đây là chỉ là phim đóng lại, không phải là phim quay tại hiện trường nơi xảy ra sự việc.
Như đã trình bày ở trên, bài viết này sẽ chỉ là phần mở đầu của một câu chuyện dài, mà bạn đọc sẽ giữ vai trò là những tác giả tiếp theo, bằng những lời bình luận, thông tin, tư liệu bổ sung.
Chúng tôi, trong dự tính, cũng có thể có những bài viết tiếp theo về vấn đề này.
Trong quá trình hoàn thiện bài viết này, chúng tôi có được một số nhà báo đề nghị không nêu danh tính đóng góp ý kiến bổ sung. Chúng tôi xin phép được đưa nguyên văn vào dưới đây:
Vài chi tiết rõ nhất - không thể chối cãi - cho thấy cảnh video đã được dàn dựng lại: 
A- Tỷ lệ (proportion) chiều cao của căn nhà sau lưng hiện trường so với chiều cao chung của đám đông : Trong những ảnh thật (Ảnh A1 chẳng hạn), căn nhà nầy chỉ cao khoảng 5/3 (1,7 lần) chiều cao của các vị sư dù đứng gần hay xa căn nhà. Trong khi đó, trong Video, ngoài kiến trúc và ngoại cảnh của căn nhà đã khác rồi, chiều cao của căn building lại cao khoảng 7/3 (2.3 lần) chiều cao của các vị sư.
 
Ảnh A1: Chiều cao của vách tường trước căn nhà chỉ cao khoảng 1,7 lần chiều cao các vị sư

Ảnh Video: Chiều cao của vách tường trước building l ạ iỉ cao khoảng 2,3 lần chiều cao các vị sư

B- Từ  ngoài nhìn vào, phía tay phải của căn nhà lợp mái tôn đỏ là những căn nhà khác xây nối theo như trong hình thật. Ngược lại, trong Video, những căn nhà khác nay đã biến mất, thay vào đó là những lùm cây to của một công viên.

 
Ảnh 4: Nhà xây nối tiếp nhau.   Video (Ảnh A): Nhà đứng một mình, nối với một lùm cây.

C- Trong hình thật (Ảnh 3), từ trái sang phải có 3 cột thẳng đứng nằm trước ngôi nhà: Một trụ xây kiểu échafaudage, một trụ ximăng hình ống, và một trụ đèn xanh/đỏ kiểm soát giao thông. Nhưng trong Video, trước căn nhà nầy không có cột đèn nào cả
 
Ảnh 3: Có 3 cột xây trước ngôi nhà.                                Trong Video: Ảnh A3, trước building không có trụ nào cả.

D- Enjoliveur bánh trước của xe trong hình thật (Ảnh 3 và Ảnh 4) có vòng trung tâm rất đậm, rõ nét lồi ra. Còn trong Video thì chỉ là một enjoliveur phẳng (flat/plat)

     
Ảnh 3 và Ảnh 4, trung tâm bánh xe có 2 vòng đồng tâm (concentric) rõ nét. Còn bánh xe trong Video thì phẳng lỳ, hoặc chỉ phồng ra mà không có vòng đồng tâm.

E- Ngọn lửa trước khi HT TQĐ sắp ngã xuống: Video từ 2.47 đến Video 3.07.
Trong video, dù đã cháy được 41 giây (từ 2.06 bắt đầu đến 2.47) mà lửa vẫn bùng cháy dữ dội vì quá nhiều xăng. Còn trong hình thật (Ảnh 2), ngay từ lúc ngài TQĐ chưa ngã, ngọn lửa đã thưa và loảng lắm rồi vì ít xăng hơn.
   
  Video 2.47: Lưng vẫn thẳng          Video 2.49: Lưng ngã xiên 45 độ       Video 3.07: Lưng  ngã xuống đất

Ảnh 2: Ngay khi chưa ngã, lửa đã thưa và loảng lắm rồi

F- Người đổ xăng trong Video tiếp tục đổ xăng lên mặt đường hướng về phía đầu chiếc xe Austin (nghĩa là thẳng góc 90 độ với trục xe). Nhưng trong hình thật (Ảnh A1), toàn bộ vùng lửa (trên mặt đường) lại song song với trục xe.

   
Trước khi đốt (Video 1.14)                                                      Sau khi đốt (Video 3.45)
  
Ảnh 1

Video (1.14): Trước khi đốt, một nhà sư đổ xăng xuống mặt  đường, từ lưng của Bồ Tát hướng về bánh xe Austin,cho nên sau khi đốt (Video 3.45) dòng lửa tạo thành một trục thẳng góc với chiếc xe. Trong khi đó, trên Hình thật (Ảnh 1), vũng lửa trên mặt đường lại cháy song song với trục xe Austin.
Video nầy đương nhiên là GIẢ (Video đen trắng, được thêm màu vào, giống những carte postale Phap thời 1960, thời này chỉ có super 8 -andy warhol- nên màu thêm vào sau này, khi transferred qua Video).
Vị trí, tư thế ngồi của vị Bồ Tát, cách bố trí của chiếc xe, và chính chiếc xe trong Video đều được dàn dựng. Cách quét ông kính camera ẫn sau lưng các vị sư hoặc các viên cảnh sát  đều để tìm cách che dấu / giảm thiểu những sơ hở có thể bị phát hiện. 
Video nầy có lẽ làm với 2 mục đích: (i) như một film tài liệu tái dựng lại (reinact) sự cố  để ai dùng vào mục đích gì thì dùng vô tội vạ; và (ii) mà đây mới là mục đích chính : một cách vô thức, implant (cài đặt) vào memory mọi người ấn tượng rằng vị Đại Bồ Tát Thích Quảng Đức đã bị tưới xăng lên người chứ không tự tưới xăng lấy.
Mỹ là vua xử dụng phương pháp nầy để đầu độc cả thế giới. Phương pháp nầy có tên gọi ai cũng biết mà chẳng ai ngờ: Hollywood!